Sáp nhập tỉnh Yên Bái, Lào Cai có mỏ quặng lớn nhất, mỏ đá quý lớn nhất

Sáp nhập 2 tỉnh Yên Bái, Lào Cai sẽ mở rộng không gian một vùng đất giàu tài nguyên thiên nhiên, trong đó có tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên nước…

Trước khi sáp nhập, mỏ quặng Apatit Lào Cai có trữ lượng lớn nhất khu vực Đông Nam Á

Mỏ quặng Apatit Lào Cai có quy mô rất lớn và trữ lượng được đánh giá là lớn nhất Việt Nam cũng như khu vực Đông Nam Á.

Vùng mỏ quặng này phân bố chủ yếu dọc theo bờ phải (hữu ngạn) sông Hồng, kéo dài gần 100 km, từ khu vực biên giới Việt – Trung ở phía Bắc đến vùng huyện Văn Bàn ở phía Nam, và nằm trọn trong địa bàn tỉnh Lào Cai.

Mỏ quặng Apatit Lào Cai phân bố trên địa bàn của ít nhất 4 huyện gồm, TP Lào Cai, Bát Xát, Bảo Thắng, Văn Bàn.

Hiện nay, quặng Apatit Lào Cai chủ yếu khai thác ở khai trường 19 thuộc địa bàn thành phố Lào Cai. Đây là một trong những khai trường quan trọng và mới được đưa vào khai thác trở lại mạnh mẽ.

Mỏ quặng apatit tại Lào Cai là một trong những tài nguyên khoáng sản quan trọng nhất của Việt Nam, đóng vai trò then chốt trong việc cung cấp nguyên liệu cho ngành sản xuất phân bón, phục vụ đắc lực cho sự phát triển của nông nghiệp nước nhà.

Quá trình hình thành, thăm dò và khai thác mỏ quặng này là một câu chuyện dài, phản ánh sự nỗ lực không ngừng của con người và tầm quan trọng chiến lược của loại khoáng sản này.

Mỏ apatit Lào Cai thuộc loại hình trầm tích biển, được hình thành cách đây hàng trăm triệu năm, trong điều kiện môi trường biển cổ đặc biệt.

Apatit là một nhóm các khoáng vật phosphat, trong đó fluorapatit là thành phần chính trong quặng apatit Lào Cai.

Nguồn cung cấp phốt pho ban đầu được cho là từ các hoạt động núi lửa dưới đáy biển, sự phong hóa đá lục địa và sự phân hủy xác sinh vật biển.

Mỏ quặng apatit tập trung chủ yếu tại Lào Cai. Ảnh: Thịnh Phúc Chemical.

Trong các môi trường biển nông, ấm, có sự lưu thông nước hạn chế và giàu chất hữu cơ, phốt pho hòa tan trong nước biển đã kết tủa và lắng đọng dưới dạng các hợp chất phosphat. Quá trình này thường diễn ra ở các vùng thềm lục địa hoặc các vịnh kín.

Qua hàng triệu năm, các lớp trầm tích chứa phosphat ngày càng dày lên. Dưới tác động của áp lực và nhiệt độ trong quá trình địa chất, các trầm tích này dần biến đổi, tái kết tinh và hình thành nên các vỉa quặng apatit rắn chắc như ngày nay.

Các hoạt động kiến tạo sau đó cũng góp phần làm thay đổi vị trí và hình dạng của các thân quặng.

Những dấu hiệu đầu tiên về sự hiện diện của apatit tại Lào Cai được phát hiện từ thời Pháp thuộc, vào đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và đánh giá quy mô còn hạn chế.

Sau khi miền Bắc được giải phóng khỏi thực dân Pháp, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đặc biệt quan tâm đến việc tìm kiếm và khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Các đoàn địa chất đã được cử đến Lào Cai để tiến hành khảo sát, thăm dò chi tiết hơn.

Trong những thập kỷ tiếp theo, với sự hỗ trợ kỹ thuật từ các nước xã hội chủ nghĩa (đặc biệt là Liên Xô), công tác thăm dò được đẩy mạnh.

Hàng loạt các lỗ khoan thăm dò đã được thực hiện, giúp xác định trữ lượng, chất lượng và đặc điểm phân bố của các thân quặng. Các phương pháp địa vật lý, địa hóa cũng được áp dụng để khoanh vùng tiềm năng.

Việc khai thác mỏ apatit Lào Cai bắt đầu từ những năm 1950 và ngày càng được mở rộng về quy mô và công nghệ.

Trong giai đoạn đầu, việc khai thác chủ yếu được thực hiện bằng các phương pháp thủ công và bán cơ giới, với công suất còn hạn chế.

Từ những năm 1960, các mỏ khai thác lớn như Mỏ Cóc, Mỏ Cam Đường đã được xây dựng và đưa vào hoạt động. Công nghệ khai thác lộ thiên được áp dụng chủ yếu.

Ngày nay, các đơn vị khai thác apatit tại Lào Cai đã và đang không ngừng đầu tư đổi mới công nghệ, đưa vào sử dụng các thiết bị máy móc hiện đại, công suất lớn trong các khâu khoan, nổ mìn, xúc bốc, vận tải. Các biện pháp quản lý khai thác và bảo vệ môi trường cũng ngày càng được chú trọng.

Vai trò của mỏ quặng Apatit Lào Cai đối với phát triển nông nghiệp

Mỏ quặng apatit Lào Cai có vai trò vô cùng to lớn và không thể thay thế đối với sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam.

Apatit là nguyên liệu chính để sản xuất phân lân – một trong ba loại phân bón đa lượng thiết yếu (đạm, lân, kali) cho cây trồng. Phân lân giúp cây trồng phát triển bộ rễ, tăng khả năng hấp thụ dinh dưỡng, kích thích ra hoa, đậu quả, tăng năng suất và chất lượng nông sản.

Quặng Apatit Lào Cai là nguyên liệu sản xuất ra nhiều loại phân bón phục vụ phát triển nông nghiệp, trong đó có phân DAP. Ảnh: Thịnh Phúc Chemical.

Việc tự chủ được nguồn cung phân lân từ apatit Lào Cai đã góp phần quan trọng vào việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Nông dân có nguồn phân bón ổn định với giá cả hợp lý hơn so với việc phải nhập khẩu hoàn toàn.

Sử dụng phân lân giúp cải tạo đất, tăng độ phì nhiêu cho đất, đặc biệt là các vùng đất nghèo dinh dưỡng, đất phèn, đất bạc màu. Điều này giúp nâng cao hiệu quả sử dụng đất và tăng thu nhập cho người nông dân.

Ngành công nghiệp khai thác và chế biến apatit, sản xuất phân bón đã tạo ra nhiều việc làm, đóng góp vào ngân sách nhà nước và thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Ngoài sản xuất phân bón, apatit còn được sử dụng để sản xuất axit photphoric, thức ăn gia súc, và một số sản phẩm hóa chất khác, phục vụ gián tiếp cho nông nghiệp và các ngành kinh tế khác.

Sáp nhập Yên Bái thành công, tỉnh Lào Cai có mỏ đá quý Lục Yên

Ẩn mình giữa núi non hùng vĩ của tỉnh Yên Bái, huyện Lục Yên từ lâu đã được mệnh danh là “thủ phủ đá quý” của Việt Nam, là nơi khởi nguồn của những viên ruby, sapphire, spinel quý hiếm, được giới chuyên gia đánh giá cao về chất lượng và vẻ đẹp.

Lục Yên được ưu ái gọi bằng nhiều cái tên mỹ miều như “vùng đất ngọc”, “cội nguồn ruby”, “thủ phủ đá quý”, tất cả đều khẳng định vị thế độc tôn của vùng đất này trong ngành công nghiệp đá quý Việt Nam.

Ruby Lục Yên đặc biệt được ưa chuộng bởi độ cứng vượt trội và màu sắc rực rỡ, được đánh giá là “đẹp hàng đầu thế giới”.

 

Điểm nhấn đặc biệt của Lục Yên chính là phiên chợ đá quý độc đáo, được hình thành một cách tự phát từ những năm 1989-1990.

Những người thợ đào đá đỏ thời đó bắt đầu bày bán những viên đá quý khai thác được để đổi lấy tiền và các vật phẩm thiết yếu. Dần dần, khu chợ nhỏ bé này phát triển thành một trung tâm giao dịch đá quý sầm uất, thu hút đông đảo người mua bán từ khắp nơi đổ về.

Khoáng vật spinel vùng Lục Yên (tỉnh Yên Bái) được phát hiện từ năm 1985 cùng với các thành tạo ruby và saphir trong sa khoáng. Spinel vùng Lục Yên có rất nhiều màu sắc khác nhau: đỏ, hồng, tím, xanh nước biển, xanh da trời,…

Phiên chợ bán đá đỏ Lục Yên, Yên Bái. Ảnh: daiphuanresort.

Loại spinel có chất lượng ngọc cao dùng để làm hàng trang sức chủ yếu được khai thác trong sa khoáng, trong khi đó loại spinel trong đá gốc (đá hoa) thường có chất lượng ngọc thấp và chủ yếu dùng làm mẫu sưu tập. Màu sắc của spinel Lục Yên thay đổi tuỳ thuộc vào hàm lượng của các nguyên tố tạp chất gây màu.

Vùng mỏ Lục Yên thuộc tỉnh Yên Bái, nằm cách Hà Nội 270 km về phía tây bắc. Từ Hà Nội có thể đi bằng tàu hỏa hoặc ô tô theo quốc lộ số 6 lên Yên Bái. Sau đó từ thành phố Yên Bái đi tiếp 70km theo quốc lộ 70 sẽ đến thị trấn Yên Thế là trung tâm huyện Lục Yên.

Kỳ lạ một loại mặt nạ ở khu đền tháp Champa nổi tiếng nhất đất Quảng Nam

Năm 1985 ruby và saphir được phát hiện tại Lục Yên, tỉnh Yên Bái trong quá trình lập bản đồ địa chất khu vực. Năm 1987 Công ty Đá quý Việt Nam (VINAGEMCO) được thành lập và bắt đầu việc khai thác ruby và saphir tại một số điểm mỏ vùng Lục Yên.

Việc khai thác có quy mô đầu tiên được tiến hành tại Khoan Thống, trong quá trình khai thác ruby và saphir thì phát hiện được một lượng lớn spinel đi kèm trong sa khoáng, chúng bao gồm các tinh thể được mài tròn một phần hoặc dạng mảnh vỡ với nhiều màu sắc khác nhau: đỏ, hồng, đỏ phớt nâu, phớt tím và có độ trong suốt cao thích hợp cho việc sản xuất hàng trang sức.

Sau đó, một loạt các điểm mỏ vùng An Phú cho nhiều spinel có màu sắc khác nhau: màu lam được khai thác nhiều ở Cổ Ngạn, các màu đỏ, hồng, tím gặp nhiều ở các khu vực Hin Om, Khau Nghiền, Vàng Sáo, Nước Ngập, Ngòi Lạnh, Cổng Trời. Những năm gần đây spinel màu xanh da trời được khai thác nhiều ở Lũng Thin, Bãi Sơn.

Cảnh dân kéo lên núi rừng Lục Yên đào đá đỏ những năm 2019-2.020. Ảnh: Hồng Quan-Đức Phạm.

Sáp nhập tỉnh Yên Bái với tỉnh Lào Cai không chỉ tạo điều kiện tốt hơn cho việc thăm dò, khai thác các loại tài nguyên, trong đó có tài nguyên khoáng sản mà con kết nối hạ tầng giao thông phục vụ công nghiệp khai khoáng.

Tỉnh Yên Bái có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú và đa dạng, bao gồm các loại khoáng sản: nhiên liệu (than các loại), khoáng sản kim loại (sắt, đồng, chì – kẽm, vàng, mangan, … ), khoáng sản không kim loại (khoáng chất công nghiệp và vật liệu xây dựng: kaolin, felspat, thạch anh, grafit, talc, đá vôi trắng, đá làm vật liệu xây dựng, cát, sỏi…), khoáng sản quý hiếm (đá quý các loại) đến nước khoáng, nước nóng.

Đến nay, có khoảng 300 khu vực mỏ đã được cấp phép thăm dò, khai thác. Ngoài ra, còn có một số biểu hiện khoáng sản chưa được điều tra đánh giá mới chỉ được ghi nhận trong các công tác đo vẽ bản đồ địa chất tỷ lệ nhỏ.

Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 866/QĐ-TTg ngày 18/7/2023.

Tại Quy hoạch, các loại khoáng sản trên địa bàn tỉnh Lào Cai (gồm Chì – Kẽm, Sắt, Đồng, Vàng, Apatit, Molipden, Đất hiếm, Vecmiculit, Serpentin, Grafit, Quarzit, Mica, Thạch anh, Nước khoáng và nước nóng thiên nhiên) đã được thống kê về trữ lượng, tài nguyên cũng như xây dựng các đề án, dự án thăm dò, khai thác, chế biến trong giai đoạn đến năm 2030 và giai đoạn 2031 – 2050.


Nguồn: https://danviet.vn/sap-nhap-tinh-lao-cai-yen-bai-so-huu-mot-kho-bau-lon-nhat-dong-nam-a-mot-kho-bau-lon-nhat-viet-nam-d1330741.html